Lời bài hát được sáng tác tại lễ khởi công của công trình Cổng Độc Lập tại Seoul vào năm 1896 bởi tác giả Yun Chi-ho. Yun Chi-ho là một nhà chính trị và nhà giáo dục theo tư tưởng độc lập khỏi đế quốc Nhật Bản. Lời tiếng Hàn: 동해 물과 백두산이 마르고 닳도록 Trong thời gian vài tuần trở lại đây,mọi sự chú ý của cộng đồng người chơi game bài đổi thưởng đều đổ dồn về sự xuất hiện của B24 Club - một sản phẩm được đầu tư phải nói là công phu và bài bản nhất từ trước tới nay. Từ giao diện đồ họa Lời và ý nghĩa của quốc ca Nhật Bản - Kimigayo. Khi chưa đọc bài viết này, bạn đã biết tên của quốc ca Nhật Bản chưa? Bài hát có tên Kimigayo (君が代). Mặc dù được hát như bài quốc ca từ rất lâu rồi nhưng mãi tới năm 1999, Kimigayo mới được công nhận chính thức 2. Bài Kimigayo - Quốc ca Nhật Bản Kimi Ga Yo (君が代 Quân Chi Đại) là quốc ca của Nhật Bản. Lời của bản quốc ca này dựa trên một bài Hòa ca cổ trong thi tập Cổ kim Hòa ca tập được viết vào thời kỳ Heian (khoảng thế kỉ 10). Lời bài hát Ca Ngợi Tổ Quốc. Album: 50 Bài Hát Thiếu Nhi (CD1) Sáng tác: Hoàng Vân. Trời cao trong xanh sương sớm long lanh. Mặt nước xanh xanh cành lá rung rinh. Bầy chim non hát ca vang. đàn bướm lượn tung tăng bay lượn theo bước chân đi tới trường. Trời cao trong sáng nhìn đất Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Cách học tiếng Hàn Thời gian đăng 23/03/2020 1012 Cùng Hàn Ngữ SOFL học tiếng Hàn qua bài Quốc ca Hàn Quốc. Đây là bài hát “quốc dân” mà bất cứ người dân xứ kim chi nào cũng thuộc. Lời bài hát được sáng tác tại lễ khởi công của công trình Cổng Độc Lập tại Seoul vào năm 1896 bởi tác giả Yun Chi-ho. Yun Chi-ho là một nhà chính trị và nhà giáo dục theo tư tưởng độc lập khỏi đế quốc Nhật Bản. Lời tiếng Hàn 동해 물과 백두산이 마르고 닳도록 하느님이 보우하사 우리나라 만세 남산 위에 저 소나무 철갑을 두른 듯 바람서리 불변함은 우리 기상일세 가을 하늘 공활한데 높고 구름 없이 밝은 달은 우리 가슴 일편단심일세 이 기상과 이 맘으로 충성을 다하여 괴로우나 즐거우나 나라 사랑하세 Điệp khúc 무궁화 삼천 리 화려 강산 대한 사람 대한으로 길이 보전하세Lời tiếng Việt "Dù Đông Hải khô cạn, núi Bạch Đầu mòn, Trời sẽ bảo vệ chúng ta, Tổ quốc muôn năm! Cây thông trên đỉnh Nam Sơn đứng vững vàng trong sương gió như thể được mang giáp, tinh thần quật khởi của chúng ta cũng như vậy. Trời thu trong xanh, cao ngàn dặm, không một bóng mây, trăng sáng ở trong tim ta vẫn vẹn nguyên một hình hài. Với tinh thần và trí óc, hãy trao lòng trung thành của chúng ta. Yêu đất nước dù trong gian lao hay hạnh phúc. Sông núi hoa lệ dài ba ngàn lý mọc đầy hoa dâm bụt, người Đại Hàn mãi đi trên con đường Đại Hàn, hoàn toàn là giang sơn của chúng ta."Từ vựng tiếng Hàn có trong bài 동해 Biển Đông 백두산이 Núi Baekdusan, dịch ra từ Hán Việt là núi Bạch Đầu 마르고 닳도록 Cạn khô và mòn 하느 Trời 우리 Chúng ta 나라 Quốc gia, đất nước 만세 Muôn năm 남산 Tháp NamSan 위 Ở trên 불변함 Bất biến, vững vàng 가을 Mùa thu 공활 Vẹn nguyên 가슴 Ngực, trái tim 사람 Người 충성 Lòng trung thành Vào ngày 15 tháng 8 năm 1948 - ngày lễ quốc khánh đầu tiên của Hàn Quốc, bài hát đã chính thức được công nhận làm quốc ca chính thức của Đại Hàn Dân Quốc, phần giai điệu mới do nhạc sĩ Ahn Eak-tae sáng tác. Trung tâm tiếng Hàn SOFL chúc bạn học tiếng Hàn vui vẻ và hiệu quả. Thông tin được cung cấp bởi Cơ sở 1 Số 365 Phố Vọng - Đồng Tâm - Hai Bà Trưng - Hà Nội Cơ sở 2 Số 44 Trần Vĩ Lê Đức Thọ Kéo Dài - Mai Dịch - Cầu Giấy - Hà Nội Cơ sở 3 Số 54 Ngụy Như Kon Tum - Thanh Xuân - Hà Nội Cơ sở 4 Số 491B Nguyễn Văn Cừ - Long Biên - Hà Nội Email trungtamtienghansofl Điện thoại 84-4 62 921 082 Hoặc 84-4 0964 66 12 88 website Bình luận face Quốc ca Nhật Bản kokka là "Kimigayo." Khi thời kỳ Minh Trị bắt đầu vào năm 1868 và Nhật Bản bắt đầu trở thành một quốc gia hiện đại, không có quốc ca Nhật Bản. Trên thực tế, người nhấn mạnh sự cần thiết của một bài quốc ca là huấn luyện viên ban nhạc quân đội người Anh, John William Fenton. Những từ này được lấy từ một bài tanka bài thơ 31 âm tiết được tìm thấy trong Kokin-wakashu, một tuyển tập thơ thế kỷ thứ 10. Bản nhạc được sáng tác vào năm 1880 bởi Hiromori Hayashi, một nhạc sĩ của Triều đình và sau đó được hòa âm theo thể thức Gregorian bởi Franz Eckert, một ban nhạc người Đức. "Kimigayo The Emperor's Reign" đã trở thành quốc ca của Nhật Bản vào năm 1888. Từ "kimi" dùng để chỉ Hoàng đế và dòng chữ có nội dung cầu nguyện "Cầu mong triều đại của Thiên hoàng kéo dài mãi mãi." Bài thơ được sáng tác vào thời kỳ Hoàng đế trị vì thiên hạ. Trong Thế chiến thứ hai , Nhật Bản là một quốc gia quân chủ tuyệt đối, điều này đã đưa Thiên hoàng lên hàng đầu. Quân đội Đế quốc Nhật Bản đã xâm lược nhiều nước Châu Á. Động lực là họ đang chiến đấu vì Hoàng đế thần thánh. Sau Thế chiến thứ hai, Thiên hoàng trở thành biểu tượng của Nhật Bản theo Hiến pháp và đã mất tất cả quyền lực chính trị. Kể từ đó, nhiều ý kiến ​​phản đối đã dấy lên về việc hát "Kimigayo" như một bài quốc ca. Tuy nhiên, hiện nay, nó vẫn được hát tại các lễ hội quốc gia, các sự kiện quốc tế, trường học và các ngày lễ quốc gia. "Kimigayo" Kimigayo wa Chiyo ni yachiyo ni Sazareishi no Iwao to narite Koke no musu made 君 が 代 は千代 に 八千 代 にさ ざ れ 石 の巌 と な り て苔 の む す ま Bản dịch tiếng Anh Cầu mong sự trị vì của Hoàng đế sẽ tiếp tục trong một ngàn, nay, tám ngàn thế hệ và vĩnh viễn để những viên sỏi nhỏ phát triển thành một tảng đá lớn và bị bao phủ bởi rêu. Người ta nói rằng, trong số các bài quốc ca thì “Kimigayo” 君が代 – Quân Chi Đại là bài quốc ca ngắn nhất thế giới. Xét về thời gian thì quốc ca của tiểu bang Jordan dường như là ngắn hơn. Nhưng xét về độ dài, với việc chỉ có 26 kí tự bao gồm cả Kanji thì đó chính là lý do quốc ca Nhật Bản được gọi là quốc ca ngắn nhất thế giới. 1. Nguồn gốc quốc ca Nhật Bản Khoảng năm 1868, thời Minh Trị Duy Tân, xuất phát từ đề xuất của sỹ quan quân đội Hoàng gia Anh – ngài John Wiliam, Nhật Bản nên có quốc ca chính thức. Ý tưởng này đã được Thiên Hoàng chấp thuận và giao nhiệm vụ cho Hiromori Hayashi – nhạc công của Thiên Hoàng đảm nhiệm. Sau đó, ông tìm thấy được niềm cảm hứng cho những lời đầu tiên của “Kimigayo” trong “Kodai Wakashu”, một tập thơ cổ Hoàng gia được viết vào thời kì Heian khoảng thế kỉ 10. Dựa vào bài thơ, ông đã cố gắng viết lại phần lời vào năm 1880. Phần ký âm theo nhạc lý Tây phương được Franz Ecker, một giáo viên âm nhạc người Đức soạn ra. Sau nhiều năm tỉ mỉ nghiên cứu và hoàn thiện. Đến năm 1888 được xem là mốc thời gian Kimigayo chính thức ra đời. Năm 1893 Minh Trị thứ 26 bài Kimigayo được bộ Giáo dục Nhật Bản công bố trở thành bài phải được hát trong các trường học vào ngày lễ. Tuy nhiên sau chiến tranh thế giới thứ 2, bài Kimigayo bị phê phán nhiều bởi đó là biểu tượng cho chủ nghĩa quân phiệt, cho chế độ Thiên hoàng. Đó là quốc ca của một đất nước quân phiệt hoá bằng chiến tranh Nhật – Thanh, chiến tranh Nhật – Nga, sự kiện Mãn Châu và chiến tranh Thái Bình Dương. Mặc dù có rất nhiều phản đối, ngày 9 tháng 8 năm 1999, Kimigayo trở thành quốc ca chính thức cùng với cờ Nhật Bản. Điều này đã được ghi rõ trong hiến pháp. 2. Ý nghĩa bài quốc ca Nhật Bản Bài quốc ca này là lời chúc cho vương triều của Thiên hoàng Nhật Bản tồn tại mãi mãi. Vì thời điểm sáng tác bài hát này, Thiên hoàng là người có quyền lực cao nhất tại Nhật. Tất cả mọi người đều tôn vinh ngài. Dù bài quốc ca này bị lên án với chế độ quân chủ cũng như các vấn đề về chiến tranh thời kỳ thế chiến thứ 2. Nhưng nó vẫn tồn tại và trường tồn đến hiện nay, trở thành bản quốc ca ngắn nhất trên thế giới cũng như mang những tinh thần dân tộc cao cả của người Nhật. 3. Bài hát quốc ca Nhật Bản Lời bài hát quốc ca Nhật Bản Bài quốc ca của Nhật Bản là bài Kimigayo rất ngắn gọn, chỉ có 4 câu và được phổ nhạc từ tập thơ waka cổ. Bài hát có lời theo tiếng Nhật và được phiên âm, phiên dịch ra như sau 君が代は Kimi ga yo wa Hoàng triều hạnh phúc vạn tuế của Người ちよにやちよに Chiyo ni yachi yo ni Xin Thiên hoàng hãy trị vì 細石の Sazare ishi no Cho đến khi những viên sỏi bây giờ 巌となりて Iwao to narite Qua thời gian kết thành những tảng đá 苔の生すまで Koke no musu made Với bề mặt cổ kính đầy rêu phong. Kimi nghĩa là quân trong quân thần. Từ kimi hiện nay được dùng với nghĩa chủ nhân, trưởng gia đình, bạn hữu, người yêu… dùng từ kimi để gọi người thân thiết với mình hoặc người dưới tuổi. Tuy nhiên, dưới chế độ quân phiệt ngày xưa thì kimi chính là chỉ Thiên hoàng. Nghĩa đại thể của bài Kimigayo này là Chúc mạnh khoẻ mãi mãi! Vạn tuế. Thông điệp bài quốc ca muốn gửi gắm Lớp nam, nữ đã trưởng thành Qua hàng nghìn, hàng trăm năm Dù cho có mãi mãi tái sinh Hãy đoàn kết hợp tác Mong cho sợi dây kết nối và niềm tin vững chắc mãi mãi được thắt chặt. 4. Nghi thức hát Quốc ca Nhật Bản Bài quốc ca Nhật Bản bắt buộc các học sinh ở trường học phải học và hát quốc ca. Ngay từ cấp 1, tất cả trẻ em Nhật đều phải được học Kimigayo tại trường. Nhưng bài hát quốc ca này của Nhật không phải ai cũng có thể hát được. Bởi khi hát giai điệu sẽ phải cao lên dần và với những người có tông giọng thấp sẽ khó mà hát được lên cao. Giống như Việt Nam, bài quốc ca của Nhật Bản cũng thường được hát vào sáng thứ 2 hàng tuần tại Nhật Bản. Đó cũng là một nghi thức quan trọng với mỗi người dân Nhật, nghi lễ thiêng liêng. Vào mỗi sáng đầu tuần khi bài quốc ca vang lên như một sự hùng hồn. Thể hiện tinh thần yêu nước của người dân Nhật Bản với quốc gia của họ cùng với niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Bài quốc ca như là một lời nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi công dân Nhật Bản đối với đất nước, tinh thần yêu nước của họ. >>> Xem thêm 4 nét đẹp văn hóa Nhật Bản mà bạn phải thán phục VĂN HÓA NHẬT Thứ Năm, 04 Tháng Năm 2023 Trong số các bài hát quốc ca trên thế giới, quốc ca Nhật Bản là bài ngắn nhất với việc sở hữu vỏn vẹn 26 ký tự và ý nghĩa của Quốc ca Nhật Bản cũng rất đặc biệt. Hãy cùng Kosei tìm hiểu xem bài hát này có gì khác biệt so với những bài hát quốc ca của thế giới nhé! Nguồn gốc lịch sử của Quốc ca Nhật Bản Bài hát quốc ca của Nhật Bản có tên gọi là Kimigayo. Là bài hát dựa trên một bài thơ theo kiểu waka của Nhật, được sáng tác cách đây hơn 1000 năm có tên là Yamibito trong tập thơ Kokin waka shuu. Dựa theo phần lời của tập thơ cổ, Hiromori Hayashi - Nhạc công của Thiên hoàng đã viết lại phần lời vào năm 1880. Năm 1893, bài hát này đã được Bộ giáo dục Nhật công bố là bài hát phải hát trong những trường học trong các ngày lễ. Nhưng sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật Bản bị kiểm soát và bài quốc ca bị cấm với các lý do liên quan đến chính trị. Năm 1999 thì bài hát này mới được hợp pháp hóa và trở thành quốc ca của Nhật Bản, được ghi rõ trong Hiến pháp. Mặc dù được chính thức công nhận chỉ mới vài chục năm trở lại đây, nhưng xét theo lịch sử thì bài quốc ca đã ra đời từ thế kỷ thứ 10 với ý nghĩa tinh thần dân tộc cao cả của người Nhật. Lời bài hát và ý nghĩa của Quốc ca Nhật Bản - Lời bài hát 君が代は きみがよは Kimiga yo wa Hoàng triều hạnh phúc vạn tuế của Người 千代に八千代に ちよにやちよに Chiyo ni yachiyo ni Xin Thiên hoàng hãy trị vì 細石の さざれいしの Sazare ishino Cho đến khi những viên sỏi bây giờ 巌となりて いわおとなりて I wao to narite Qua thời gian kết thành những tảng đá Kokeno musu made 苔の生すまで こけのむすまで Với bề mặt cổ kính đầy rêu phong. - Ý nghĩa bài hát Quốc ca Nhật Bản Ý nghĩa và nội dung của bài quốc ca này là lời chúc cho vương triều của Thiên hoàng Nhật Bản tồn tại mãi mãi. Vì thời điểm sáng tác bài hát này, Thiên hoàng là người có quyền lực cao nhất tại Nhật và tất cả mọi người đều tôn vinh ngài. Dù bài quốc ca này bị lên án với chế độ quân chủ cũng như các vấn đề về chiến tranh của Nhật Bản trong thời kỳ thế chiến thứ 2. Nhưng nó vẫn tồn tại và trường tồn đến hiện nay, trở thành bản quốc ca ngắn nhất trên thế giới cũng như mang những tinh thần dân tộc cao cả của người Nhật. Tìm hiểu nghi thức hát Quốc ca Nhật Bản Bài quốc ca Nhật Bản bắt buộc các học sinh ở trường học phải học và hát quốc ca. Ngay từ cấp 1, mọi trẻ em Nhật đều phải được học Kimigayo tại trường. Nhưng bài hát quốc ca này của Nhật không phải là bài đơn giản mà ai cũng có thể hát được như nhiều quốc gia khác. Bởi khi hát giai điệu sẽ phải cao lên dần và với những người có tông giọng thấp sẽ khó mà hát được lên cao. Giống như Việt Nam, bài quốc ca của Nhật Bản cũng thường được hát vào sáng thứ 2 hàng tuần tại Nhật Bản. Đó cũng là một nghi thức quan trọng với mỗi người dân Nhật, nghi lễ thiêng liêng. Vào mỗi sáng đầu tuần khi bài quốc ca vang lên như một sự hùng hồn, thể hiện tinh thần yêu nước của người dân Nhật Bản với quốc gia của họ cùng với niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Bài quốc ca như là một lời nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi công dân Nhật Bản đối với đất nước, tinh thần yêu nước của họ. Quốc ca Kimigayo chỉ với 5 câu vỏn vẹn nhưng đã trở thành bài hát quốc ca ngắn nhất trên thế giới. Mặc dù trên thế giới có một số quốc gia cũng sở hữu những bài quốc ca khá ngắn, nhưng ít có bài nào chỉ có 32 từ. Chính vì điều này mà quốc ca của Nhật Bản đã được lọt vào danh sách bài quốc gia ngắn nhất tính theo số chữ cái đến hiện nay. Trước đây, bài quốc ca của Jordan là bài ngắn nhất, thế nhưng sau đó quốc gia này đã sáng tác thêm lời nên độ dài bài quốc ca của họ đã dài hơn và do đó Kimigayo trở thành bài quốc gia có số chữ ít nhất. Trên đây là thông tin về ý nghĩa của Quốc ca Nhật Bản mà Trung tâm tiếng Nhật Kosei cung cấp. Hi vọng bài viết đã mang lại nhiều điều bổ ích đến cho các bạn đọc về văn hoá Nhật Bản. Tin liên quan >>> 15 bài hát tiếng Nhật cho mùa đông >>> 13 bài hát tiếng Nhật sẽ là xu hướng âm nhạc 2020 >>> Học tiếng Nhật qua bài hát Sakura- Bài hát tốt nghiệp >>> Học tiếng Nhật qua bài hát Chiếc máy bay giấy 365 ngày Bạn đang xem bài viết Quốc Ca Việt Nam Và Quốc Ca Nhật Bản được cập nhật mới nhất trên website Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Việt Nam và Nhật Bản trong những năm gần đây có những bước tiến vượt bậc trong quan hệ giao thương và cả văn hóa nghệ thuật. Trong đó lĩnh vực trao đổi và xuất khẩu lao động được chú ý đặc biệt. Khi bạn đến Việt Nam thì tìm hiểu quốc ca Việt Nam là điều hiển nhiên, và khi bạn đến Nhật Bản thì biết sơ qua bài quốc ca Nhật Bản cũng là điều rất cần thiết. Vậy bạn đã biết rõ về nội dung cũng như nguồn gốc 2 bài hát cho tổ quốc này chưa? Cùng tìm hiểu thôi nào! Quốc ca nước Việt Nam – Bài “Tiến quân ca” của tinh thần dân tộc Mỗi đất nước đều có 1 bài hát quốc ca để thể hiện tinh thần dân tộc và lòng tự tôn khi đi ra biển lớn. Nước Việt Nam của chúng ta cũng vậy! Ai ai cũng có thể cất vang bài quốc ca với sự tự hào dâng cao nhưng còn rất nhiều bạn trẻ vẫn chưa am tường về nguồn gốc xuất xứ của bài hát đặc biệt này. Đây là câu trả lời dành cho bạn! Nguồn gốc bài quốc ca của nước Việt Nam Bài hát quốc ca của Việt Nam được chính thức sử dụng từ năm 1976 sau khi được toàn bộ đại biểu quốc hội biếu quyết thông qua. Nguồn gốc của bài hát này chính là bài hát “Tiến Quân ca” do nhạc sỹ Văn Cao sáng tác năm 1944. Trước năm 1975, bài Tiến Quan ca được xem là bài hát biểu tượng cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Tên bài hát quốc ca Việt Nam là gì? Như đã đề cập, quốc ca Việt Nam có tên gọi nguyên bản là ” Tiến Quân ca “. Đây là một bài hát có nhịp mạnh mẽ, ngôn ngữ hào hùng và có sức mạnh khích lệ tinh thần người nghe cực kỳ hiệu quả. Nó được nhạc sỹ Văn Cao sáng tác phục vụ cho Cách Mạng Tháng 8 năm 1945. Khi được chọn làm quốc ca thì lời bài hát Tiến Quân ca được sửa chữa một số chỗ như thay từ “Việt Minh” thành “Việt Nam”. Lời bài hát quốc ca Việt Nam Từ khi được chính thức lưu hành toàn quốc thì bài quốc ca Việt Nam gồm có 2 lời Lời 1 Đoàn quân Việt Nam đi Chung lòng cứu quốc Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca. Đường vinh quang xây xác quân thù, Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu. Vì nhân dân chiến đấu không ngừng, Tiến mau ra sa trường, Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta vững bền. Lời 2 Đoàn quân Việt Nam đi Sao vàng phấp phới Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới, Đứng đều lên gông xích ta đập tan. Từ bao lâu ta nuốt căm hờn, Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn. Vì nhân dân chiến đấu không ngừng, Tiến mau ra sa trường, Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta vững bền. Học hát quốc ca Việt Nam có khó không? Học hát quốc ca Việt Nam là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân, là sự tôn trọng của mỗi người khi đến sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Các bài quốc ca trong lịch sử Việt từ thời khai hoang lập quốc Quốc ca đầu tiên của Việt Nam Từ thế kỷ 19 trở về trước có khá nhiều bài hát dùng trong hoàng cung nội tộc nhưng để xác định chính xác bài quốc ca thì rất khó. Do đó chúng ta chỉ xác định bài quốc ca từ thời vua Bảo Đại – Vị vua cuối cùng của nước Việt Nam. Vào thời vua Bảo Đại thì nhà vua chọn quốc kỳ là Cờ Long Tinh và quốc ca là bài hát Đăng Đàn Cung được sử dụng chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung. Lúc này miền Nam Kỳ lục tỉnh vẫn còn là thuộc địa của Pháp nên không sử dụng hoặc rất ít nơi sử dụng quốc ca của chế độ vua Bảo Đại. Quốc ca Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa Trong giai đoạn 1945 – 1975 thì sự kiện đáng chú ý nhất là hiệp đinh Geneva chia đất nước thành 2 miền và lấy vĩ tuyến 17 làm mốc ranh giới quân sự. Lúc này nước Việt Nam có 2 bài quốc ca ở 2 đầu tổ quốc. Miền Bắc do Đảng cộng sản lãnh đạo lấy quốc ca là bài hát Tiến Quân ca Miền Nam do chính phủ Việt Nam Cộng hòa lãnh đạo và quốc ca là bài hát Tiếng gọi công dân Sau khi chính quyền Việt Nam Công Hòa sụp đổ thì bài hát Tiến quân ca mới chính thức được hát vang trên mọi miền đất nước. Và từ năm 1975 thì bài hát Tiếng Gọi Công Dân cũng không được lưu hành rộng rãi nữa mà dần đi vào quên lãng. Hiện nay chỉ có một nhóm nhỏ các sỹ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn sử dụng và thỉnh thoảng có hát tại các sự kiện tưởng niệm tại Mỹ và một số quốc gia khác. Lời bài quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa Quốc ca của chính quyền Việt Nam công hòa có khá nhiều bản, tuy nhiên bản chính thức của bài Tiếng Gọi Công Dân có lời bài hát như sau “Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên, Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dù cho thây phơi trên gươm giáo, Thù nước, lấy máu đào đem báo. Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy, Người Công Dân luôn vững bền tâm trí. Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ! Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống Xứng danh nghìn năm dòng giống Lạc Hồng!” Quốc ca Nhật Bản – Tinh hoa tâm hồn Võ Sĩ Đạo Nguồn gốc bài quốc ca Nhật Bản Quốc ca Nhật Bản có tên gọi nguyên bản là KimiGayo – dịch theo Hán thư là Quân Chi Đại. Đây là một bài hát cổ đã xuất hiện và được sử dụng từ thế kỷ thứ 10 tại xứ Phù Tang. Lời của bài hát này được sáng tác dựa trên một bản hòa âm cổ trong tác phẩm kinh điển Cổ Kim hòa ca tập xuất hiện vào thời đại Heian trong lịch sử nước Nhật Bản. Tác giả của bài hát là nhạc sỹ Hiromori Hayashi – Trưởng ban nhạc cung đình nội sảnh Nhật Bản sáng tác năm 1880. Kể từ năm 1893 thì thiên hoàng Minh Trị bắt đầu cho phép lưu hành toàn quốc và phổ cập thành bài quốc ca chính thức của đất nước mặt trời mọc. Xem lời bài quốc ca Nhật Bản ở đâu? Hiện nay với sự phát triển của công nghệ thông tin thì bạn có thể tìm thấy lời bài hát quốc ca Nhật Bản tại khắp mọi nơi. Với đầy đủ các phiên bản tiếng Nhật, tiếng Hán, tiếng phiên âm cũng như tiếng Việt nên chúng ta có thể dễ dàng theo dõi lời bài hát. Bài quốc ca Nhật KimiGayo được dịch sang nghĩa Tiếng Việt như sau “Hoàng triều của Người Qua ngàn đời, và tám ngàn đời Những viên sỏi nhỏ kết thành những tảng đá cổ kính rêu phong.” Mặc dù nổi tiếng với những hình tượng Võ sĩ đạo mạnh mẽ hoặc Yakuza bí ẩn huyền thoại nhưng quốc ca Nhật Bản lại vô cung nhẹ nhàng sâu lắng. Đó giống như một lời tâm tình với non sông, lời trò chuyện sâu lắng và chứa ý nghĩa sâu sắc nhiều tầng mà mỗi người sẽ có góc nhìn và cách hiểu khác nhau. Học hát quốc ca Nhật Bản có khó không? Nét tương đồng giữa quốc ca Việt Nam và quốc ca Nhật Bản Ý nghĩa quốc ca Việt Nam Thuở nhỏ còn đi học, mỗi thứ hai đầu tuần chúng ta đều được hát quốc ca và hướng về phía quốc kỳ tươi thắm. Những công dân xa quê hoặc đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản đôi khi nhớ về quê hương và thì thầm hát bài quốc ca hào hùng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng nhất mà bài quốc ca mang lại cho mỗi chúng ta – Lòng tự tôn dân tộc. Bài hát Tiến Quân ca với lời nhạc hào hùng mạnh mẽ, từng nốt nhạc cất lên đều thể hiện tấm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam. Nhiều thế hệ người Việt Nam đã hát Quốc ca với nhiệt huyết từ mỗi trái tim cho dân tộc và đất nước, sự tự hào về truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất của một dân tộc nhỏ bé nhưng không tầm thường. Mỗi câu chữ trong bài hát quốc ca của Việt Nam đều là một lời khuyên nhủ nhẹ nhàng nhưng sâu lắng cho những thế hệ trẻ. Hãy sống và cống hiến cho quê hương đất nước, cùng chung tay đồng lòng bảo vệ tổ quốc và xây dựng non sông ngàn năm vững bền. Ý nghĩa quốc ca Nhật Bản Được một nhạc sỹ danh tiếng người Nhật soạn lời và được một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức hòa âm, bài quốc ca Nhật Bản trở thành một tượng đài của văn hóa xứ Phù Tang. Mặc dù chỉ có đôi dòng ngắn gọn và được cất vang chưa đến 1 phút nhưng quốc ca Nhật Bản ẩn chứa rất nhiều hàm ý cao cả và thiêng liêng. Đây giống như một bức tâm thư mà những thế hệ tổ tiến muốn truyền đạt lạ cho con cháu người Nhật tinh thần của dân tộc, sự biết ơn những thế hệ đi trước và mong muốn xây dựng đất nước cường thịnh lâu dài. Bài quốc ca này đã từng được bầu chọn là bài quốc ca ý nghĩa nhất thế giới trong một sự kiện âm nhạc của các sinh viên nhạc viện. Quốc ca Nhật Bản còn được xem như một bức thư tình ngàn năm để gửi tình yêu quê hương đến mẹ thiên nhiên và những đấng sinh thành, lãnh đạo quốc gia. Đó là lời thì thầm chứa đựng nhiều tầng lớp ý nghĩa. Để từ một bài hát ngắn gọn nhưng đủ sức mạnh để thúc đẩy một dân tộc nhỏ bé, một quốc gia nghèo nàn vươn lên thành con Rồng Châu Á và siêu cường của thế giới. Điểm tương đồng trong tinh thần của bài quốc ca 2 nước Xét về nội dung, cả hai bài quốc ca đều hướng đến tình yêu quê hương đất nước và khát vọng độc lập tự chủ. Bên cạnh đó là những ý nghĩa hàm ẩn răn dạy cho các thế hệ sau về non sông đất nước, về cách sống và làm việc cống hiến cho màu cờ sắc áo. Mỗi bài quốc ca đều thể hiện được vẻ đẹp của tinh thần dân tộc, ca ngợi sự hào hùng của những thế hệ ngàn năm dựng nước giữ nước. Từng câu từng chữ trong 2 bài quốc ca đều làm cho những công dân sở tại thêm yêu nước hơn và thêm động lực để cống hiến cho tổ quốc. Kết luận Mỗi đất nước đều có những vẻ đẹp riêng và những bản sắc dân tộc không thể nhầm lẫn. Và bài hát quốc ca chính là biểu tượng cho tinh thần dân tộc độc lập ấy. Từng hoàn cảnh hình thành đất nước mà bài hát quốc ca sẽ có những định hướng nội dung và ý nghĩa khác nhau. Ý Nghĩa Lịch Sử Của Quốc Kỳ Và Quốc Ca Việt Nam Nhạc sĩ Văn Cao đã sống những năm cuối đời tại một căn gác nhỏ trên phố Yết Kiêu, Hà Nội. Tại đây, người thân của ông vẫn đang lưu giữ những kỷ vật về người nhạc sĩ tài hoa, trong đó có bài “Tiến quân ca” được cất giữ như một báu vật của gia đình. Tham gia Việt Minh, nhiệm vụ của Văn Cao là viết một ca khúc để cổ vũ tinh thần cho đội quân cách mạng. Và “Tiến quân ca” đã ra đời vào năm 1944 và được in trên báo Độc lập do chính tác giả tự khắc bản nhạc lên phiến đá để in báo. Ngày 13/8/1945 trước khi Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức chọn “Tiến quân ca” làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhạc sĩ Văn Thao – Con trai cả của cố nhạc sĩ Văn Cao kể lại “Ông đã nhìn thấy năm đó là năm nạn đói người chết rất nhiều, hàng ngày những xe bò đi thu nhặt xác chết và ông có một cảm xúc, một sự khơi dậy trong tình cảm, lòng căm thù vì sao mà lại có những cái cảnh này xảy ra trên đất nước mình. Vì thế, ông nghĩ là phải có một bài hát nào đó thúc giục chúng ta đứng lên”. Còn tại một căn nhà nhỏ khác ở xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, Hà Nam cũng đang lưu giữ kỷ vật về một con người – ông Nguyễn Hữu Tiến, người được cho là tác giả của lá cờ đỏ sao vàng. Kỷ vật ấy là bức tranh ông Tiến phác thảo lá cờ do nhạc sỹ Văn Cao vẽ tặng. Bà Nguyễn Thị Xu – Con gái liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến ngậm ngùi “Khi còn đang hoạt động thì bố tôi vẽ ra mẫu cờ Tổ quốc nên bị bắt tù đầy. Rồi cụ mất lúc tôi hãy còn bé nên không gặp bố lần nào nữa. Ông Văn Cao và ông Sơn Tùng cũng về 1, 2 lần và mang cái ảnh cụ tôi vẽ ra lá cờ Tổ quốc”. Ngày 2/9/1945, Tiến quân ca cùng cờ đỏ sao vàng hãnh diện tung bay trong ngày Bác Hồ bố cáo trước toàn thể quốc dân đồng bào, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hơn một năm sau, trong Điều 3 của bản Hiến pháp đầu tiên đã quy định Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh và Quốc ca là bài Tiến quân ca. Phạm Xanh – Nhà nghiên cứu Lịch sử cho biết “Màu đỏ của lá cờ là màu của cách mạng. Chúng ta giành lấy nền độc lập và giữ nền độc lập bằng máu của nhiều thế hệ dân tộc chúng ta. Ngôi sao vàng là màu của chủng tộc, chủng tộc da vàng, còn 5 cánh của ngôi sao là tựu chung cho sự đoàn kết của dân tộc của 5 lớp người sĩ, nông, công, thương, binh. Và sự quy tụ đó là của khối đại đoàn kết dân tộc. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa 1 năm 1946 trước đó có một số phần tử muốn thay Quốc kỳ nhưng cụ Hồ đã nói một lời kiên quyết trong kỳ họp thứ 2 đó rằng quyền đó không phải là quyền của Quốc hội mà là quyền của 25 triệu người dân Việt Nam. Chỉ khi 25 triệu người dân Việt Nam quyết định thay lá cờ, thay quốc ca thì Quốc hội mới có quyền thay”. Và sau khi đất nước được thống nhất, mặc dù trong các bản Hiến pháp năm 1959 và 1980 chỉ quy định rõ Quốc kỳ mà không quy định rõ về Quốc ca, nhưng trong phiên họp Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất vào năm 1976, nhạc và lời của bài Tiến quân ca vẫn được Quốc hội quyết định là Quốc ca của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 68 năm kể từ ngày nước Việt Nam có Quốc ca và Quốc kỳ, bài Tiến quân ca và lá cờ đỏ sao vàng đã đi cùng với dặm đường trường chinh dân tộc Việt Nam. Và gần đây, dù có một vài ý kiến đề nghị thay đổi lời của bài Quốc ca, nhưng lời của bài Tiến quân ca thúc giục người Việt Nam tiến lên vì Tổ quốc và lá cờ đỏ sao vàng “in máu chiến thắng mang hồn nước” vẫn tiếp tục được quy định trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 giống như bản Hiến pháp hiện hành. Ý Nghĩa Quốc Kỳ Và Quốc Huy Nước Việt Nam Hiện Nay Quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đại diện cho nước Việt Nam thống nhất. Lá cờ có hình chữ nhật, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Nền cờ đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh cùng đoàn kết. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng màu đỏ nền cờ tượng trưng dòng máu đỏ, màu vàng ngôi sao tượng trưng da vàng, và năm cánh tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Quốc kỳ Việt Nam được công nhận từ năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất. Quốc hội khóa VI đã lấy quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với vài sửa đổi nhỏ, làm quốc kỳ chính thức đại diện cho nước CHXHCN Việt Nam. Định dạng chuẩn Quốc kỳ Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Điểm giữa ngôi sao vàng đặt đúng điểm giữa điểm giao nhau của hai đường chéo quốc kỳ. Khoảng cách từ điểm giữa ngôi sao đến đầu cánh sao bằng 1/5 chiều dài quốc kỳ. Một cánh sao có trục vuông góc với cạnh dài quốc kỳ và hướng thẳng lên phía trên theo đầu cột treo quốc kỳ. Tạo hình ngôi sao từ đầu cánh sao này đến đầu cánh sao đối diện là đường thẳng, không phình ở giữa, cánh sao không bầu. Hai mặt của quốc kỳ đều có ngôi sao vàng trùng khít nhau. Nền quốc kỳ màu đỏ tươi, ngôi sao màu vàng tươi. Những giả thuyết về tác giả Nguyên mẫu của quốc kỳ Việt Nam hiện nay được ghi nhận xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23/11/1940. Tuy nhiên, dù đã tồn tại hơn 70 năm nhưng tác giả của lá cờ vẫn không được xác định một cách chính xác. Mấy chục năm qua, các phương tiện thông tin đại chúng đều nói tác giả quốc kỳ là Nguyễn Hữu Tiến Hà Nam. Trên website của Quốc hội và của Đảng cũng khẳng định như vậy. Nhưng tất cả đều dẫn nguồn về cuốn sách “Nguyễn Hữu Tiến” mang dấu ấn cá nhân của nhà văn Sơn Tùng năm 1981. Tuy nhiên không có tài liệu, văn kiện nào của Nhà nước trong các viện lưu trữ và bảo tàng chứng minh điều này. Năm 2001, Bộ Văn hóa – Thông tin đã xác nhận không đủ cơ sở chứng minh đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ lá cờ Tổ quốc. Giả thuyết thứ hai do Tỉnh ủy Tiền Giang đề nghị gần đây, đặt lại vấn đề lịch sử và cho rằng ông Lê Quang Sô Mỹ Tho mới là tác giả quốc kỳ. Tư liệu của các nhà nghiên cứu và nhân chứng còn sống trong khởi nghĩa Nam Kỳ đều đưa ra những căn cứ rất thuyết phục nhưng không được cấp nhà nước chính thức công nhận. Như vậy, câu hỏi về tác giả lá cờ đỏ sao vàng cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Quốc huy CHXHCN Việt Nam Quốc huy Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam và tiền đồ xán lạn của nước Việt Nam. Bông lúa vàng bao quanh tượng trưng cho nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho công nghiệp và chính giữa dải lụa phía dưới là dòng chữ tên nước “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quốc huy Việt Nam hiện nay nguyên thủy là quốc huy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội khóa I phê chuẩn năm 1955 từ mẫu quốc huy do Chính phủ đề nghị. Năm 1976, khi đất nước thống nhất, mẫu quốc huy được sửa đổi phần quốc hiệu. Do những tranh chấp và nhầm lẫn về tác giả quốc huy suốt nhiều năm, Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ đạo bộ Văn hóa – Thông tin thành lập tổ tư vấn để giám định tư liệu. Ngày 23/09/2004 Bộ Văn hóa – Thông tin đã thông báo kết luận khẳng định “Mẫu quốc huy là một cống hiến chung của giới Mỹ thuật Cách mạng Việt Nam, trong đó phải kể đến công lao của họa sỹ Bùi Trang Chước – người đã vẽ những mẫu quốc huy để làm cơ sở lựa chọn, hoàn thiện và họa sỹ Trần Văn Cẩn – người đã chỉnh sửa hoàn thiện mẫu quốc huy theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo để trình Quốc hội phê duyệt”. Mẫu quốc huy gốc với tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia III Bộ Nội vụ với hai phụ bản in màu và in nét. Đáng tiếc là từ sau năm 1976 do thiếu những quy chuẩn về việc sử dụng và không được phổ biến rõ nên hiện nay đang có tình trạng hình quốc huy không đồng nhất. Hình quốc huy trên đồng tiền, các bằng cấp, huân – huy chương, sách báo, trang thông tin điện tử, trên các trụ sở cơ quan nhà nước… mỗi hình mỗi vẻ. Nghiên cứu bản mẫu quốc huy chính thức chúng ta thấy về bố cục, tỉ lệ các hình tượng rất cân đối, hài hòa, vững chắc. Hình dáng, đường nét của các bông lúa, hạt lúa, ngôi sao, bánh xe răng cưa, dải lụa có tên nước Việt Nam được chắt lọc kĩ lưỡng nên rất sinh động, tượng trưng và chuẩn mực. Màu sắc của quốc huy được phối hợp mạch lạc, hài hòa giữa đỏ, vàng và nét nâu. Mẫu quốc huy Việt Nam hoàn chỉnh về hình thức, sâu sắc về nội dung, đã thể hiện cô đọng, súc tích về đất nước và dân tộc Việt Nam, với nền tảng công – nông nghiệp, với lý tưởng cách mạng và tinh thần đại đoàn kết, với khát vọng hòa bình và sự khẳng định chủ quyền thiêng liêng của quốc gia. Hình quốc huy các bạn đang xem là mẫu quốc huy chính thức theo công văn 1790/BNV-TCBC của Bộ Nội vụ ban hành 24/05/2013 gửi các cơ quan hành chính nhà nước về việc sử dụng thống nhất và đồng bộ mẫu quốc huy . Nguồn — Sưu tầm và tổng hợp — Quốc Kỳ Việt Nam Ý Nghĩa Và Lịch Sử Lá quốc kỳ Việt Nam tung bay là hình ảnh đầy xúc động trong lòng mỗi người dân chúng ta. Hiểu về Quốc kỳ là điều mỗi công dân cần biết. Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống thực dân Pháp 23/11/1940. Tác giả sáng tạo ra lá cờ nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh này là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến sinh ngày 5/3/1901 tại Hà Nam, bị địch bắt và bị xử bắn ngày 28-8-1941 cùng các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa tại Hóc Môn, trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Vǎn Tần, Hà Huy Tập…. Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông Hỡi những ai máu đỏ da vàngHãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốcNền cờ thắm máu đào vì nướcSao vàng tươi, da của giống nòiĐứng lên mau hồn nước gọi ta rồiHỡi sỹ nông công thương binhĐoàn kết lại như sao vàng năm cánh. Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có Quốc kỳ riêng của mình. Việt Nam là một dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng, là biểu tượng của hồn nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời bền vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam và là biểu tượng thiêng liêng nhất, thể hiện nhiệt huyết cách mạng, sự hy sinh anh dũng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đánh đuổi quân xâm lược, giành chính quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi một người dân Việt Nam và đã được cộng đồng quốc tế công nhận và tôn trọng. Lá cờ đỏ sao vàng là một minh chứng khẳng định sự thống nhất, độc lập, tự chủ và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định và lịch sử kiểm chứng trong gần một thế kỷ qua, đó là “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Lịch sử và ý nghĩa của lá cờ đỏ sao vàng Việt Nam gắn liền với những năm tháng đấu tranh kiên cường, bất khuất, đổ máu hy sinh anh dũng của nhân dân Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi của Tổ quốc, giành chính quyền, thống nhất đất nước, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn để có được cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc ngày nay. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vã lãnh đạo cách mạng. Thời kỳ đầu, trong các cuộc đấu tranh đã xuất hiện lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh nhưng được lồng trên hình búa liềm. Năm 1940, Xứ uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Nam kỳ họp quyết định khởi nghĩa, đã thực hiện di huấn của đồng chí Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng – lấy cờ đỏ sao vàng làm lá cờ khởi nghĩa với ước muốn là sau khi đánh đổ đế quốc Pháp sẽ thành lập nước Việt Nam Cộng hòa dân chủ và quốc kỳ Việt Nam sẽ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh. Tháng 5/1941 tại Khui Nậm, Cao Bằng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Trung ương VIII quyết định thành lập tổ chức Việt Nam độc Lập đồng minh – đoạn mở đầu chương trình Việt Minh ghi rõ “Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ”. Đây là văn bản đầu tiên, chính thức quy định Quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào, Tuyên Quang đã quyết định Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ. ở giữa có một sao vàng năm cánh. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi vào Hiến pháp “Quốc kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh”. Sau ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông Việt Nam đã liền một dải. Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại Thủ đô Hà Nội, đã thông qua nhiều Nghị quyết quan trọng, trong đó công nhận Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Nền đỏ tượng trưng cho màu nhiệt huyết cách mạng, màu chiến đấu và chiến thắng; màu vàng của ngôi sao tượng trưng cho sự sáng ngời của linh hồn dân tộc Việt Nam; năm cánh sao là sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp đồng bào chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Quốc kỳ Việt Nam được tung bay trên khắp các công sở, trường học, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, các cửa khẩu, các buổi mít tinh, lễ đón tiếp các đoàn khách cấp cao nước ngoài; Quốc kỳ Việt Nam cũng được giương lên cùng với Quốc kỳ của những nước trên thế giới khi các đoàn cấp cao của chúng ta đến thăm và làm việc. Cờ đỏ sao vàng Việt Nam cũng được tung bay trên từng nóc nhà mỗi một gia đình Việt Nam vào những ngày lễ hội, Tết cổ truyền… Nguồn chúng tôi Lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ duy nhất đại diện cho dân tộc Việt Nam, điều đó đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi một người dân Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã khẳng định tại cuộc họp Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn chính phủ đi từ châu á sang châu Âu, từ châu Âu về châu á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì… trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền đòi thay đổi Quốc kỳ và Quốc ca…”. Đó là hồn nước, niềm tự hào, biểu tượng thiêng liêng bất khả xâm phạm của bản sắc dân tộc Việt Nam. Định dạng chuẩn Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Điểm giữa ngôi sao vàng đặt đúng điểm giữa điểm giao nhau của hai đường chéo Quốc kỳ. Khoảng cách từ điểm giữa ngôi sao đến đầu cánh sao bằng một phần năm chiều dài của Quốc kỳ. Một cánh sao có trục vuông góc với cạnh dài Quốc kỳ và hướng thẳng lên phía trên theo đầu cột treo Quốc kỳ. Tạo hình ngôi sao từ đầu cánh sao này đến đầu cánh sao đối diện là đường thẳng, không phình ở giữa, cánh sao không bầu. Hai mặt của Quốc kỳ đều có ngôi sao vàng trùng khít nhau. Nền Quốc kỳ màu đỏ tươi, ngôi sao màu vàng tươi. Hình ảnh giúp thiết kế chuẩn Quốc kỳ Cập nhật thông tin chi tiết về Quốc Ca Việt Nam Và Quốc Ca Nhật Bản trên website Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!

quốc ca nhật bản lời việt